Nuôi tắc kè thương phẩm

Cập nhật lúc:17/06/2019, 22:21

TẮC KÈ là loại dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao.Tắc kè hay còn gọi là ĐẠI BÍCH HỔ hay CÁP GIẢI.Theo y học dân tộc tắc kè là một vị thuốc bổ có tác dụng làm giảm mệt mỏi, chữa nhiều chứng ho kho trị, ho ra máu, hen suyễn, đái rắt ,đái són, đau xương…tráng dương bổ thận… rất hiệu quả.Trong các bài thuốc nam tắc kè được dùng ngâm rượu hoặc sấy khô tán thành bột để uống.Theo các kết quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi tắc kè có chứa rất nhiều a xit a min và các chất béo có tác dụng kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh, tăng sức khỏe con người. (Trích bài của KS ĐẶNG TỊNH )

Ngoài sử dụng trong y học tắc kè còn được sử dụng làm các món ăn bổ dưỡng, rất được các nhà hàng khách sạn ưa chuộng.
Trước đây tắc kè ngoài tự nhiên rất nhiều, nhưng do nhu cầu sử dụng của thị trường nội địa và xuất khẩu ngày càng cao nên tắc kè ngoài tự nhiên bị săn bắt quá mức gần như cạn kiệt . Do thị trường tiêu thụ tắc kè rất phong phú và đa dạng, hiện còn khan hiếm, để đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường nên trang trại của chúng tôi đã và đang cung cấp tắc kè giống , tắc kè thịt cho các hộ chăn nuôi và nhà hàng, khách sạn.
1.ĐẶC ĐIỂM:
Hình dáng bên ngoài trông giống như con thạch sùng (thằn lằn) nhưng to và dài hơn. Thân dài 15-17cm, đuôi dài 10-15cm. Đầu hình tam giác nhọn về phía mõm. Mắt có con ngươi thẳng đứng. Có hai chân trước và hai chân sau, mỗi chân có 5 ngón toè rộng, mặt dưới ngón có các nút bám để con vật dễ leo trèo. Toàn thân từ đầu đến đuôi có những vảy nhỏ hình hạt lồi với nhiều màu sắc (xanh thẫm, xanh nhạt, vàng, đen, đỏ nhạt…). Màu sắc của con vật thay đổi theo màu sắc của môi trường sống để ngụy trang che giấu kẻ thù ăn thịt. Đuôi tắc kè được xem là phần bổ nhất của con vật. Tắc kè mất đuôi trị giá bị giảm hẳn.

2.TẬP TÍNH VÀ SINH TRƯỞNG:
Tắc kè có tên trong y học cổ truyền là cáp giới. Các vùng nông thôn Việt Nam, nhiều gia đình đã nuôi tắc kè, nó ở trong các hốc cây, cột nhà hoặc nằm ở dưới các lớp ngói âm dương.
Tắc kè hoạt động săn mồi về ban đêm là chủ yếu, nó ăn sâu bọ, gián, muỗi, ruồi, nhện và các loài bọ cánh cứng khác. Mùa đông, khi nhiệt độ xuống dưới 20oC thì tắc kè ngủ đông. Mùa xuân về, thời tiết ấm áp, những tiếng kêu: “tắc kè, tắc kè… è” là tiếng gọi bạn tình trong mùa động dục.
Da tắc kè có nhiều màu óng ánh luôn thay đổi theo môi trường với mực đích ngụy trang để trốn tránh kẻ thù. Nếu khi bắt được tắc kè mà túm lấy đuôi nó, lập tức đuôi sẽ đứt lìa giúp cho tắc kè chạy thoát. Tắc kè cũng giống như con thằn lằn, đứt đuôi là hình thức tự vệ và nó sẽ tái sinh đuôi khác. Tắc kè thuộc họ bò sát nhưng không có nọc độc.
Khi tắc kè được 6 đến 7 tháng tuổi đạt trọng lượng khoảng 80g trở lên thì bắt đầu đẻ trứng, một tháng đẻ một lần mỗi lần đẻ từ 2 đến 5 trứng.Chúng đẻ liên tục trong nhiều năm, trứng bám vào vách tường hoặc thân cây sau 2 đến 3 tháng thì nở.Tắc kè con thường sống chung tổ với bố mẹ, chúng chỉ đi tìm tổ mới khi tổ cũ đã quá đông các thành viên.

3.THỨC ĂN:
Tắc kè ăn các loại côn trùng còn sống như: dế mèn, gián, châu chấu, trùn quế, sâu, mối, nhện…

4.CÔNG DỤNG:
Theo sách: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GSTS Đỗ Tất Lợi có đoạn viết “Thịt tắc kè vị mặn, tính ôn, có tác dụng làm giảm mệt mỏi, cơ thể suy nhược, chữa nhiều chứng ho khó trị rất hiệu quả, tráng dương bổ thận, tăng cường sinh lực, trẻ em còi xương, suy dinh dưỡng, hen suyễn, người già đau lưng, đau khớp…” Còn theo nhiều sách y học cổ truyền, thịt tắc kè, rượu và thuốc bào chế từ con tắc kè có tác dụng trợ dương, ích âm, trị ho lâu, ho ra máu. Từ giá trị bổ dưỡng đó trong dân gian nhiều người đã coi tắc kè là một con vật quý hiếm, người dùng thường xuyên có thể nâng cao sức khỏe, tăng cường sự dẻo dai. Các kết quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi của nó có chứa nhiều axít amin và các chất béo có tác động kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh, tăng cường sức khoẻ cho con người…

5.CÁCH LÀM CHUỒNG NUÔI:

Trước đây ở nước ta có rất nhiều tắc kè, mỗi năm bẫy bắt tới 2-3 trăm ngàn con vừa để đáp ứng nhu cầu nội tiêu vừa để xuất khẩu. Ngày nay do bị săn bắn quá nhiều đồng thời môi trường sống thích hợp của nó bị thu hẹp lại nên lượng tắc kè sống trong tự nhiên bị giảm sút mạnh. Vì vậy, người ta đã nghĩ ra cách nuôi tắc kè để có sản phẩm cung cấp cho thị trường. Căn cứ vào tập tính sinh hoạt, đặc biệt là tập tính thích sống ở một hang tổ quen thuộc trên thân cây, không ưa rời chỗ ở cũ chuyển đến nơi khác nên ta đã nuôi được tắc kè trong chuồng nuôi theo cách sau đây:
– Chuồng nuôi được quây bằng lưới nilon hoặc lưới sắt mắt cáo đường kính mắt lưới 0,3cm. Kích thước chuồng: Dài 3m- rộng 2m- cao 2m.
– Làm cửa cao để người nuôi tiện ra vào.
– Bên trong chuồng đặt vài cây gỗ hoặc ống tre nứa cho chúng leo trèo và đẻ trứng.
Sau đó chúng ta chon những con tắc kè khỏe mạnh gần đến độ tuổi sinh sản thả vào chuồng để nuôi.Chỉ cần cho chúng ăn uống tốt là chúng tự sinh sản và phát triển rất tốt.

6. PHÂN BIỆT CON ĐỰC,CON CÁI:
Cầm con tắc kè ngửa bụng, giữ cho tư thế nằm yên và thẳng, xem các dấu hiệu sau:
– Con đực gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi có gờ cao, còn con cái gốc đuôi thon, lỗ huyệt lép hơn.
– Dưới lỗ huyệt có hai chấm gọi là chấm dưới huyệt. ở con đực chấm dưới huyệt to như hạt gạo, lồi và rất đen, còn con cái mờ và lép.
– Dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái bóp vào chỗ phồng to của gốc đuôi, nếu là con đực thì có gai giao cấu lòi ra mầu đỏ thẫm, con cái không có.
7.CÁCH CHẾ BIẾN:
Tắc kè sau khi bắt về nếu muốn dùng tươi thì chặt bỏ đầu và bốn bàn chân. Dùng dao khứa dọc sống lưng, lột da, mổ bụng bỏ ruột, chặt thành từng miếng đem ướp gia vị: Nước mắm, gừng tươi rồi đem nấu cháo. Hoặc sau khi làm thịt tắc kè xong, rửa sạch để ráo nước, tẩm nước gừng rồi sấy khô, tán thành bột. Bột tắc kè có thể trộn mật o­ng, làm thành viên để để dùng dần.
Muốn bảo quản tắc kè được lâu, nhất là tắc kè thương phẩm, cần chế biến tắc kè khô như sau: Đặt tắc kè nằm ngửa trên một miếng gỗ phẳng, đóng đinh ghim bốn bàn chân vào mặt gỗ, dùng dao sắc rạch một đường từ cổ cho đến đuôi, moi bỏ ruột, lau sạch máu và nhớt. Dùng hai que to, một que xiên ngang căng hai chân trước. Que nữa xuyên ngang căng hai chân sau. Dùng tiếp hai que ngắn và mềm hơn đặt chéo trong lòng bụng để căng cho phẳng. Cuối cùng dùng một que dài xuyên từ đầu xuống tận đuôi.
Cắt giấy bản thành từng giải quấn chặt đuôi vào que để khỏi bị đứt hoặc gãy, vì đuôi tắc kè vốn được coi là phần quý nhất. Sau khi đã xử lí xong đem phơi khô hoặc sấy khô. Dược liệu sau khi đã được sấy khô có hình dẹt phẳng. Đầu, đuôi, chân đều được căng trên một mặt phẳng. Lúc này, mắt tắc kè khô lõm xuống, miệng hơi há có hàm răng nhỏ, lưng có màu đen xám, sống lưng nhô rõ, toàn thân dược liệu có những hàng vảy nhỏ…

Lập nghiệp từ chăn nuôi tắc kè

Tốt nghiệp phổ thông trung học, Ngọc Văn Viên tình nguyện lên đường nhập ngũ. Năm 2011, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về quê nhà. không như nhiều bạn bè ra Hà Nội, vào TP. Hồ Chí Minh tìm kiếm công việc tại các khu công nghiệp. Chàng thanh niên 22 tuổi quyết vượt khó, lập nghiệp tại quê nghèo. Bắt đầu từ nguồn vốn vay chính sách.

Quê Ngọc Văn Viên ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động – huyện miền núi duy nhất của tỉnh Bắc Giang và là một trong 62 huyện nghèo của cả nước. Toàn xã trên 80% diện tích tự nhiên là đồi, rừng. Lắm đất nhưng cuộc sống của người dân vẫn cứ nghèo khổ quanh năm. Là một thanh niên ham học hỏi qua sinh hoạt tại chi đoàn thanh niên thôn Thượng; qua tìm hiểu báo, đài và các mô hình chăn nuôi tại địa phương, Ngọc Văn Viên quyết định chọn mô hình nuôi tắc kè để phát triển kinh tế. Anh lý giải: Tắc kè là động vật có nguồn gốc hoang dã, dễ nuôi, phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu núi, đồi Sơn Đông. Trong tự nhiên tắc kè sống trong các hốc cây, kẽ đá, trong các khe tường, mái nhà… chúng săn tìm các loại côn trùng, sâu bọ để ăn. Điều quan trọng hơn đây là một loại động vật có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn. Kịp thời động viên, khuyến khích những thanh niên có chí lập thân, lập nghiệp Xã đoàn Long Sơn tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn viên Ngọc Văn Viên làm thủ tục vay 20 triệu đồng từ chương trình cho vay giải quyết việc làm. Từ nguồn vốn vay ưu đãi của NHCSXH, cộng thêm 20 triệu đồng vay bạn bè, người thân, tháng 8/2011 anh bắt tay vào “dựng cơ đồ”: xây dựng chuồng trại và thả 40 cặp giống đầu tiên. Nắm chắc được đặc điểm sinh sống của vật nuôi, Ngọc Văn Viên chủ động nguồn thức ăn cho tắc kè bằng cách bắt dán, cào cào, châu chấu và nuôi dế mèn.

Năm 2012, được sự hỗ trợ của Sở Khoa học Công nghệ, huyện Sơn Động đưa thí điểm mô hình nuôi tắc kè đến 8 hộ, anh Viên được hỗ trợ 30 con giống và tham gia tập huấn kỹ thuật chăm sóc, đi tham quan mô hình nuôi tắc kè ở Nam Định. Tại trang trại Thanh Xuân thuộc xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc anh được “mục sở thị” mô hình nuôi dế, tắc kè hàng hóa. Thú vị hơn anh được gặp người đi tiên phong cùng cảnh ngộ, đó là Giám đốc trang trại Trần Thị Kim Oanh. Chị Oanh cho biết, năm 2009 được Hội Nông dân huyện và xã hỗ trợ, chị được vay 50 triệu đồng trong chương trình cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH. Có vốn, chị bắt đầu nuôi vài trăm con dế, mấy chục con tắc kè, vừa nuôi, vừa rút kinh nghiệm, bán sản phẩm lứa trước đầu tư cho lứa sau, cứ thế quy mô trang trại lớn dần. Đến nay, trang trại “Thanh Xuân” của chị Oanh đã có thương hiệu trên thương trường, một tháng trung bình chị bán 1 tạ dế thương phẩm và mỗi năm bán trên 500 con tắc kè…

Nhờ chuyến đi tham quan “trăm nghe không bằng mắt thấy”, nhờ vận dụng tốt những kiến thức đã học được vào quá trình nuôi, chăm sóc nên đàn tắc kè của anh luôn khỏe mạnh, ít bị bệnh, phát triển tốt. Hiện nay, đàn tắc kè đang có hơn 700 con. Hệ thống chuồng trại đã được anh Viên mở rộng lên 4 lần, trong đó có 2 khu ấp nuôi tắc kè giống và 2 khu nuôi tắc kè thương phẩm, đầu ra luôn ổn định. Sơ bộ tính, với giá thị trường hiện tại khoảng 200 nghìn đồng/con, đàn tắc kè của anh có giá gần 150 triệu đồng. Anh Viên cho biết: “Năm 2012, tôi cung cấp ra thị trường hơn 200 con tắc kè giống và gần 1 tạ dế mèn, trừ chi phí còn lãi 60 triệu đồng. Kết quả bước đầu đã giúp tôi trang trải được một phần vốn vay và tiếp tục phát triển, nhân rộng đàn tắc kè của mình”. Hiện nay, mô hình của anh Viên đã có nhiều đoàn viên thanh niên trong và ngoài xã Long Sơn đến tìm hiểu học hỏi và làm theo. Anh Viên động viên các bạn: “Nuôi tắc kè không khó, không vất vả, nặng nhọc như nuôi một số loại động vật khác. Nếu chịu khó nhà nào cũng nuôi được. Thức ăn của chúng dễ kiếm, nhưng các bạn lưu ý tắc kè chỉ phát hiện được mồi động chứ không nhìn được mồi tĩnh. Mùa đông, giống như các loài rắn chúng nằm sâu trong các hang hốc để trú đông, khi ấm lên mới bò ra để kiếm ăn…”.

Ngoài việc mở ra một mô hình mới – nuôi con đặc sản ở huyện vùng cao Sơn Động, Ngọc Văn Viên còn trồng rừng kinh tế với 4ha keo, chuẩn bị đến thời kỳ thu hoạch. Theo tính toán rừng keo của anh có giá trị hàng trăm triệu đồng. Vốn vay ít, lãi nhiều Ngọc Văn Viên là tấm gương trong phong trào thanh niên lập thân, lập nghiệp trên quê nghèo Sơn Động.

TẮC KÈ có tên khoa học là Gekko gekko, họ Gekkonidac, bộ Lacertilia, lớp Reptilia. Nó là một dược liệu quí mà nhân dân ta vẫn quen dùng từ lâu. Do việc khai thác quá mức nên số lượng tắc kè ngoài thiên nhiên giảm sút nhanh chóng, nên việc nuôi nó để chủ động sử dụng là điều cần thiết.
Nuôi tắc kè thương phẩm

TẮC Kèlà loại dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao.Tắc kè hay còn gọi là ĐẠI BíCH HỔ hay CáP GIẢI.Theo y học dân tộc tắc kè là một vị thuốc bổ có tác dụng làm giảm mệt mỏi, chữa nhiều chứng ho kho trị, ho ra máu, hen suyễn, đái rắt ,đái són, đau xương…tráng dương bổ thận… rất hiệu quả.Trong các bài thuốc nam tắc kè được dùng ngâm rượu hoặc sấy khô tán thành bột để uống.Theo các kết quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi tắc kè có chứa rất nhiều a xit a min và các chất béo có tác dụng kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh, tăng sức khỏe con người. (Trích bài của KS ĐẶNG TỊNH ) Ngoài sử dụng trong y học tắc kè còn được sử dụng làm các món ăn bổ dưỡng, rất được các nhà hàng khách sạn ưa chuộng.
Trước đây tắc kè ngoài tự nhiên rất nhiều, nhưng do nhu cầu sử dụng của thị trường nội địa và xuất khẩu ngày càng cao nên tắc kè ngoài tự nhiên bị săn bắt quá mức gần như cạn kiệt . Do thị trường tiêu thụ tắc kè rất phong phú và đa dạng, hiện còn khan hiếm, để đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường nên trang trại của chúng tôi đã và đang cung cấp tắc kè giống , tắc kè thịt cho các hộ chăn nuôi và nhà hàng, khách sạn.

1.ĐẶC ĐIỂM:
Hình dáng bên ngoài trông giống như con thạch sùng (thằn lằn) nhưng to và dài hơn. Thân dài 15-17cm, đuôi dài 10-15cm. Đầu hình tam giác nhọn về phía mõm. Mắt có con ngươi thẳng đứng. Có hai chân trước và hai chân sau, mỗi chân có 5 ngón toè rộng, mặt dưới ngón có các nút bám để con vật dễ leo trèo. Toàn thân từ đầu đến đuôi có những vảy nhỏ hình hạt lồi với nhiều màu sắc (xanh thẫm, xanh nhạt, vàng, đen, đỏ nhạt…). Màu sắc của con vật thay đổi theo màu sắc của môi trường sống để ngụy trang che giấu kẻ thù ăn thịt. Đuôi tắc kè được xem là phần bổ nhất của con vật. Tắc kè mất đuôi trị giá bị giảm hẳn.

Nuôi tắc kè thương phẩm

2.TẬP TíNH Và SINH TRƯỞNG:
Tắc kè có tên trong y học cổ truyền là cáp giới. Các vùng nông thôn Việt Nam, nhiều gia đình đã nuôi tắc kè, nó ở trong các hốc cây, cột nhà hoặc nằm ở dưới các lớp ngói âm dương.
Tắc kè hoạt động săn mồi về ban đêm là chủ yếu, nó ăn sâu bọ, gián, muỗi, ruồi, nhện và các loài bọ cánh cứng khác. Mùa đông, khi nhiệt độ xuống dưới 20oC thì tắc kè ngủ đông. Mùa xuân về, thời tiết ấm áp, những tiếng kêu: “tắc kè, tắc kè… è” là tiếng gọi bạn tình trong mùa động dục.
Da tắc kè có nhiều màu óng ánh luôn thay đổi theo môi trường với mực đích ngụy trang để trốn tránh kẻ thù. Nếu khi bắt được tắc kè mà túm lấy đuôi nó, lập tức đuôi sẽ đứt lìa giúp cho tắc kè chạy thoát. Tắc kè cũng giống như con thằn lằn, đứt đuôi là hình thức tự vệ và nó sẽ tái sinh đuôi khác. Tắc kè thuộc họ bò sát nhưng không có nọc độc.
Khi tắc kè được 6 đến 7 tháng tuổi đạt trọng lượng khoảng 80g trở lên thì bắt đầu đẻ trứng, một tháng đẻ một lần mỗi lần đẻ từ 2 đến 5 trứng.Chúng đẻ liên tục trong nhiều năm, trứng bám vào vách tường hoặc thân cây sau 2 đến 3 tháng thì nở.Tắc kè con thường sống chung tổ với bố mẹ, chúng chỉ đi tìm tổ mới khi tổ cũ đã quá đông các thành viên.

3.THỨC ĂN:
Tắc kè ăn các loại côn trùng còn sống như: dế mèn, gián, châu chấu, trùn quế, sâu, mối, nhện…

4.CôNG DỤNG:
Theo sách: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GSTS Đỗ Tất Lợi có đoạn viết “Thịt tắc kè vị mặn, tính ôn, có tác dụng làm giảm mệt mỏi, cơ thể suy nhược, chữa nhiều chứng ho khó trị rất hiệu quả, tráng dương bổ thận, tăng cường sinh lực, trẻ em còi xương, suy dinh dưỡng, hen suyễn, người già đau lưng, đau khớp…” Còn theo nhiều sách y học cổ truyền, thịt tắc kè, rượu và thuốc bào chế từ con tắc kè có tác dụng trợ dương, ích âm, trị ho lâu, ho ra máu. Từ giá trị bổ dưỡng đó trong dân gian nhiều người đã coi tắc kè là một con vật quý hiếm, người dùng thường xuyên có thể nâng cao sức khỏe, tăng cường sự dẻo dai. Các kết quả phân tích cho thấy thân và đặc biệt là đuôi của nó có chứa nhiều axít amin và các chất béo có tác động kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh, tăng cường sức khoẻ cho con người…

Nuôi tắc kè thương phẩm5.CáCH LàM CHUỒNG NUôI:
Trước đây ở nước ta có rất nhiều tắc kè, mỗi năm bẫy bắt tới 2-3 trăm ngàn con vừa để đáp ứng nhu cầu nội tiêu vừa để xuất khẩu. Ngày nay do bị săn bắn quá nhiều đồng thời môi trường sống thích hợp của nó bị thu hẹp lại nên lượng tắc kè sống trong tự nhiên bị giảm sút mạnh. Vì vậy, người ta đã nghĩ ra cách nuôi tắc kè để có sản phẩm cung cấp cho thị trường. Căn cứ vào tập tính sinh hoạt, đặc biệt là tập tính thích sống ở một hang tổ quen thuộc trên thân cây, không ưa rời chỗ ở cũ chuyển đến nơi khác nên ta đã nuôi được tắc kè trong chuồng nuôi theo cách sau đây:
– Chuồng nuôi được quây bằng lưới nilon hoặc lưới sắt mắt cáo đường kính mắt lưới 0,3cm. Kích thước chuồng: Dài 3m- rộng 2m- cao 2m.
– Làm cửa cao để người nuôi tiện ra vào.
– Bên trong chuồng đặt vài cây gỗ hoặc ống tre nứa cho chúng leo trèo và đẻ trứng.
Sau đó chúng ta chon những con tắc kè khỏe mạnh gần đến độ tuổi sinh sản thả vào chuồng để nuôi.Chỉ cần cho chúng ăn uống tốt là chúng tự sinh sản và phát triển rất tốt.

Bình luận

Bản quyền © 2019.